Dòng Nử Tử Trái Tim Mẹ Maria (DHM)

13/5/19

Vòng ôm


Tôi bắt đầu làm PA (Personal Assistant) khi căn bệnh ung thư của ba tôi đã tới giai đoạn cuối. Bệnh viện chê, trả về. Hai chân ba đã liệt. Mỗi sáng tôi đẩy xe lăn ra hiên cho ba ngồi phơi nắng. Tôi thích đứng phía sau, nhìn ánh sáng trinh trong chiếu qua mái tóc bạc của ba linh lang, ngập tràn. Một ngày mẹ tôi bảo: “Con không thể ở nhà mãi được. Con phải tiếp tục con đường của mình. Ở nhà đã có mẹ rồi. Đừng lo”. Tôi trở lại Sài Gòn giữa một chiều đỏ ối, lòng vụn vỡ. Mỗi cột mốc km vụt qua, tôi lại thấy mình như đang trôi về một cực xa lắc của hy vọng.

Giữa thành phố vội vã, tôi gắng tìm một điểm để neo mình lại, mong qua đó, tôi lấy lại cân bằng nhưng công việc cứ như bão tố cuốn tôi đi. Một chiều ngang qua Trung tâm Ung bướu, nhìn những chiếc xe lăn ra vào, tôi biết mình cần chuyển việc. Tôi trở thành PA. Tôi đến nhà các bạn khuyết tật, trò chuyện, nấu nướng, chở các bạn đi học, đi làm, đi chơi hoặc đi bất cứ nơi đâu mà bạn ấy muốn. Đi qua những ngày nắng, ngày mưa, những giờ kẹt xe, chờ đợi, tôi là một PA. Nhưng giữa tất cả những công việc của một PA, điều an ủi nhất và cũng đau đớn nhất với tôi chính là mỗi vòng ôm.

Mỗi lần cúi xuống bế một bạn khuyết tật, tôi lại thấy hình ảnh ba hiện ra. Tôi thấy ba như đang giơ tay ra cho tôi nắm, mong mỏi tôi xốc thân hình cạn kiệt sức sống của ba lên. Trong cái khoảnh khắc đó, tôi vội vã lao đến, dốc hết sức bế cho được người ngồi trong xe lăn lên mặc dù tôi biết đó không phải là ba. Cái cảm giác ôm một người trong tay cho tôi một niềm an ủi lớn lao như chính tôi đang ôm phần thiếu thốn của mình. Tôi thấy người tràn đầy năng lượng. Cánh tay, đôi chân tôi trở nên cứng cáp đủ để chịu được sức nặng của người khác. Lòng tôi hân hoan vui sướng như đứa trẻ được quà. Tôi sẽ tranh thủ lúc ôm, hôn lên mái tóc bạn ấy thật nhẹ giống như ba hay làm khi tôi còn nhỏ. Rồi tôi thấy hiện lên tất cả những gì mà tôi yêu mến. Gia đình, bạn hữu, học trò của tôi, những vùng đất tôi đã đi qua, những yêu thương tôi đã để lại trên đường, và cả những người đã làm tôi đau. Tôi ôm tất cả vào lòng, mạnh mẽ và sống động như khi tôi xiết chặt cánh tay chị Muội lúc chạy xuống cầu thang. Nhưng khi rời vòng tay, một nỗi đắng cay cũng êm dịu xen vào. Nó nhắc tôi về thực tại dang dở chưa một lần dám ôm ba, về sự xa cách không gian, về những ước ao chẳng biết đến bao giờ mới chạm được. Giữa hai cảm giác mâu thuẫn giằng xé, tôi vẫn thầm cám ơn những người đang cho (hay bắt) tôi ôm.

Một trưa hè, mẹ gọi điện, giọng hối hả, lo âu: “Ba yếu lắm rồi, con sắp xếp về ngay đi”. Tôi chạy như bay trên đoạn đường mưa lâm thâm, không biết mưa hay nước mắt cứ nhạt nhòa, lênh láng. Hai ngày sau ba đi, thanh thản, nhẹ nhàng giữa khi tôi đang chuẩn một vòng ôm.
Sau đám tang hai tuần, tôi trở lại Sài Gòn, chẳng thể gọi tên bất kỳ cảm xúc gì ngoài nỗi trống rỗng. Tôi như bị đánh trúng tử huyệt. Tâm hồn tôi rách nát, đau thương. Tôi dự tính nghỉ việc.

Một chiều muộn chở chị Muội từ Q.3 về Hóc Môn, giữa đường trời mưa to. Tôi ghé vội một trạm xăng, trạm đầy người trú mưa, loay hoay mãi đến khi tìm được chỗ ngồi cho chị thì hai chị em đã ướt như chuột lột. Không hiểu sao trong cái giây phút đó, tôi thấy giận bản thân mình ghê gớm, giận cả sự bất lực và nhiệt tình của mình. Còn chị thì điềm nhiên. Dường như với chị, ướt hay khô, mưa hay tạnh cũng thế thôi. Chị đã quen và chấp nhận chúng như quy luật tự nhiên. Hốt nhiên tôi nhìn lại những hỗn độn trong lòng mình. Chẳng phải cho tới giây phút này tôi vẫn không chấp nhận sự ra đi của ba đó sao? Tôi vẫn không tin đó là sự thật. Tôi không muốn thừa nhận cái quy luật sinh ly tử biệt của cuộc đời. Nhưng cuộc đời chẳng cần biết đến nỗi đau của tôi. Nó vẫn thản nhiên quay, mặc kệ tôi sống chết. Còn tôi, tôi có muốn sống nữa không?

Mưa tạnh. Tôi bế chị lên xe. Đôi chân chị bất động, lỏng lẻo dính vào cơ thể. Mỗi lần bế chị, tôi lại có cảm tưởng như đang ôm một bình thủy tinh, phải rất nhẹ nhàng, cẩn thận kẻo bể mất. Thế nhưng, ở chị có một sức mạnh nội tâm to lớn khiến mỗi lần nhìn chị, tôi nghĩ tới câu hát “May mà có em, đời còn dễ thương”. Chị dễ thương vì sức sống tiềm tàng trong chị. Sức sống ấy vượt qua mọi tật nguyền, mọi khắc nghiệt để vươn lên như chồi xanh giữa sa mạc khô cằn. Tôi không tật nguyền, nhưng lại thiếu sức sống.

Chúng tôi tiếp tục đi. Đầu tôi vang lên những quy luật cuộc đời.

Tôi không biết mình thoát ra khỏi tình trạng sa sút chính xác vào lúc nào. Tôi chỉ nhớ chiều hôm ấy mặt đường ướt át, trong đầu tôi đầy những quy luật sống. Sau lưng tôi là một người ham sống. Và tôi cần tiếp tục sống.
Khi bầu trời đã xanh trở lại thì cũng là lúc tôi thấy mình không thể ích kỷ, bám víu hoài các bạn khuyết tật được nữa. Tôi biết mình phải ra đi vì ở lại là đông cứng và giậm chân tại chỗ. Tôi phải đi để hoàn thiện chính mình và tìm kiếm cơ hội trở lại. Nhưng ngay cả khi tôi rẽ qua một ngả đường khác, thì các bạn yêu dấu ơi, tôi vẫn mang hình bóng các bạn trong tim và dâng lên Thượng đế lời nguyện cầu mỗi đêm.
TT
(ảnh: Kathy Whaley Ammon)


11/5/19

Đặc nét linh đạo DHM - Men trong bột

Ngày nay, hình ảnh các nữ tu đi tới những vùng truyền giáo xa xôi hay len lỏi vào những con phố để thăm viếng người nghèo, người già, tới bệnh viện trao Mình Thánh Chúa hoặc đứng lớp dạy học là chuyện bình thường đối với người Công giáo. Thế nhưng vào thế kỷ XVIII, người ta không tưởng tượng nổi một nữ tu lại có thể bước ra khỏi cánh cổng tu viện để dấn thân vào đời. Bởi vì công đồng Trento (1545-1563) quy định các nữ tu phải tuân giữ luật nội vi chặt chẽ. Phải chờ đến cuối thế kỷ XIX thì Tòa Thánh mới châu phê các dòng nữ sống ngoài nội vi.[1] Chính vì thế, sự xuất hiện của Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria (DHM) vào năm 1791 với đường lối “sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian” là điều gì đó rất khác biệt.

Sống giữa thế gian…

Trước hết, sự khác biệt này đã được Thiên Chúa đã chuẩn bị trong âm thầm, lặng lẽ nơi cõi lòng cô Adelaide de Cice, một phụ nữ quý tộc người Pháp một lối sống thuộc trọn về Chúa trong đời sống tu trì và phục vụ người nghèo trong mọi bối cảnh xã hội. Thế nhưng vào thời ấy, không một tu viện nào có lối sống như vậy. Adelaide vẫn kiên trì tìm kiếm lối sống đó trong suốt 13 năm cho đến khi gặp được cha Pierre de Cloriviere, dòng Tên. Cha đã lắng nghe tâm tư của cô, linh hướng và từng bước giúp Adelaide xác tín vào lời mời gọi của Thiên Chúa trên cuộc đời cô. Năm 1789, cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, một cách nào đó đã gián tiếp biến ước mơ của Adelaide thành hiện thực.

Ngày 19 tháng 7 năm 1790 cha Cloriviere nhận được ơn linh hứng về một lối tu mới rất hữu ích cho Giáo hội. Cha lập tức chia sẻ điều này với các Đấng Bản quyền và nhất là với Adelaide vì nhận thấy nơi cô có cùng một thao thức. Cha mời Adelaide cộng tác… và Dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria đã ra đời vào năm 1791 tại Paris.

Từ ngày thành lập cho đến nay, nhà Dòng vẫn trung thành với đặc sủng mình là làm chứng tá cho Chúa Kitô như một người tận hiến ở giữa môi trường sống. Dòng không có sứ vụ riêng biệt nhưng phục vụ theo nhu cầu của thời đại và nơi chốn. Các chị không mặc tu phục hay đeo huy hiệu, nhưng chọn trang phục phù hợp với môi trường phục vụ của mình.

Sự phong phú của sứ vụ kéo theo sự đa dạng trong lối sống cộng đoàn. Các nữ tu, tùy theo sứ vụ được sai đi, có thể sống chung mái nhà với cộng đoàn hoặc ở tại gia đình hay sống riêng. Sự đa dạng về sứ vụ và nơi hiện diện tạo nên nét phong phú của Dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria. Chính sự linh hoạt trong đời sống cộng đoàn và sứ vụ này tạo cơ hội cho nhiều người thuộc mọi tầng lớp, mọi nền văn hóa, sắc tộc… theo đuổi ơn gọi trong Dòng. Tất cả những năng động này giúp các chị trở nên “men trong bột” và lan tỏa hương thơm của Chúa Kitô trong bất kỳ môi trường sống và làm việc nào.

…nhưng không thuộc về thế gian

Nhìn bề ngoài, các Nữ tử Trái tim Mẹ Maria cũng giống như bao phụ nữ khác, nhưng thật ra, đời sống của họ được hướng dẫn bởi lời khấn dòng: Vâng Phục – Khiết Tịnh – Khó Nghèo. Lời khấn này tạo nên căn tính tu sĩ nơi các chị và xây dựng mối tương quan sâu đậm của từng chị với Chúa Kitô và với nhau. Cha Cloriviere, vốn là tu sĩ Dòng Tên, khi soạn Hiến Pháp và Luật Sống cho Dòng, đã không ngần ngại phác thảo đời sống thiêng liêng cho các chị theo linh đạo Inhã. Theo đó, có rất nhiều thực hành đạo đức giúp các chị tăng trưởng đời sống nội tâm như: cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng, xét mình, tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, Linh Thao, lần chuỗi Mân Côi… Thêm vào đó, các chị em sống chung với nhau theo tinh thần và mẫu gương của cộng đoàn tiên khởi. Điều này giúp các chị xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất trong đa dạng và yêu thương.

Linh đạo của trái tim  

Nếu tên gọi thể hiện căn tính sâu xa của một ai đó thì tên Dòng cũng vậy. Dòng mang tên Nữ tử Trái tim Mẹ Maria cho thấy các chị chú trọng vào đời sống nội tâm. Dẫu rằng ẩn khuất nhưng trái tim điều khiển và là nguồn mạch của mọi sinh lực bên trong chúng ta, là nơi kiến tạo một đời sống thiêng liêng vững vàng.

Trái tim còn là biểu tượng của tình yêu nên ơn gọi của các chị chính là đem yêu thương đến với mọi người. Tự sức mình, các chị không làm được. Vì vậy, các chị được mời gọi chiêm ngắm đặc biệt trái tim Mẹ Maria, để qua Mẹ kết nối với trái tim Chúa Giêsu là nguồn mạch tình yêu.

Tên tiếng Anh của Dòng là the Society of the Daughters of the Heart of Mary (DHM), nghĩa là con gái của trái tim Mẹ Maria. Điều này muốn nói lên rằng:

Trong trái tim Mẹ, con rất dấu yêu.

Suốt cuộc đời Mẹ chỉ có Chúa Giêsu trong tim. Con hãy để Chúa Giêsu làm chủ trái tim mình.

Trái tim Mẹ là ngôi trường thinh lặng. Con sẽ học biết thế nào là hiền lành, nhân hậu và khiêm cung.

Trái tim Mẹ là căn phòng ấm êm. Con sẽ tìm thấy chính mình trong tình yêu dịu dàng của Mẹ.

Trái tim Mẹ là tu viện của con, nơi con được chở che, chăm sóc và sai đi.  

Trái tim Mẹ hòa nhịp đập nhân sinh cho con thỏa sức trên cánh đồng sứ vụ.





25/4/19

Hạnh phúc đích thực và ơn gọi đời tôi

Buổi tọa đàm với cha Michel Remery với chuyên đề Tweet với Chúa đã cho tôi một dấu nhấn quá đẹp trong tổng thành tựu tốt đẹp của chương trình Đại hội Giới trẻ TGP. Sài Gòn 2019.
Bắt đầu bằng câu hỏi căn cốt nhất của mọi nỗ lực tìm kiếm của con người: “Hạnh phúc đích thực là gì?” và “Làm sao để đạt được nó?” cha đã hướng mọi người lướt qua kinh nghiệm tìm kiếm của thánh Inhã Loyola, để hội tụ lại nơi ta có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực: THIÊN CHÚA.

Kinh nghiệm của năm tham dự viên vẫn cảm thấy “buồn” khi đời mình vẫn có Chúa giúp mở ra những điều căn bản nhất của một tương quan đích thực của một người với Thiên Chúa của mình: hình ảnh bạn có về Thiên Chúa của bạn, mức độ bạn tương quan với Ngài cách đích thực trong cầu nguyện, luyện tập cầu nguyện với Kinh Thánh, kinh nghiệm khô khan trong cầu nguyện... Hình ảnh người cha tập xe đạp cho con mình thật thú vị để bắt đầu kinh nghiệm cầu nguyện cá vị.

Bạn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực khi tìm ra và can đảm thực hiện ơn gọi đích thực đời mình.

[Bạn tự Yes hoặc No cho từng câu hỏi sau nhé:
  1. Người ta hay nói về số phận, số mệnh. Bạn có tin là mình được sinh ra là để được hạnh phúc không chỉ trên cõi đời này, mà còn được HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI không?
  2. Bạn có đồng ý với quan niệm rằng: Thiên Chúa có kế hoạch cho mỗi người để họ được hạnh phúc trọn vẹn?
  3. Dù Thiên Chúa đã có kế hoạch cho bạn, nhưng bạn HOÀN TOÀN TỰ DO chọn lựa đi theo kế hoạch đó hoặc từ chối kế hoạch Ngài dành cho bạn để đi theo con đường của chính mình?
  4. Dù bạn chọn lựa theo ý Chúa hay theo ý mình, thì rốt cuộc Thiên Chúa cũng vẫn đồng hành với bạn để giúp bạn hoàn thành đời mình cách tốt nhất. Bạn đồng ý hay không?
  5. Kitô giáo tin và dạy rằng: Mỗi người chúng ta có một ơn gọi, tức là một con đường, một phương cách để nên thánh. Ơn gọi này phát xuất từ Thiên Chúa. Bạn đồng ý hay không?
  6. Ơn gọi hôn nhân TẦM THƯỜNG HƠN ơn gọi tu trì. Bạn đồng ý hay không?
  7. Chọn lựa sống độc thân để phục vụ Chúa và Hội Thánh là lạ lùng và trái tự nhiên. Bạn đồng ý hay không?
  8. Những khả năng bạn đang có là một dấu hiệu rõ ràng nhất về những gì Chúa muốn bạn thực hiện trong đời mình? Bạn đồng ý hay không?
  9. Muốn biết ý Chúa, điều quan trọng nhất cần có là mối tương quan của bạn với Thiên Chúa. Bạn đồng ý hay không?
  10. Cầu nguyện, bàn hỏi với linh hướng là những phương cách tốt giúp bạn tìm ý Chúa cho đời mình. Bạn đồng ý hay không?]
Có hai cách để bạn tìm được ơn gọi của mình: (1) tìm kiếm ý Chúa cho đời mình, (2) tìm kiếm ước muốn sâu thẳm nhất của bạn. Suốt buổi tọa đàm, cha lặp đi lặp lại rằng “Đừng sợ” như một lời khích lệ các tham dự viên dấn thân cho hạnh phúc và ơn gọi đích thực đời mình.
Như Đức Giêsu đã hỏi Phêrô đến ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” và ba lần ông trả lời “Có”. Sống ơn gọi đích thực của bạn chính là lời đáp trả: “Con yêu mến Thầy”.
Cám ơn cha Michel đã góp thêm một dấu nhấn cho Đại hội Giới trẻ năm nay với chủ để Tin Vâng của Mẹ Maria.

Vị tử đạo tiên khởi Madame des Bassablons

Madame des Bassablons tên thật là Thérèse Pélagie Anne, sinh ngày 3 tháng 12 năm 1728 tại St. Malo, nước Pháp trong một gia đình đạo đức và giàu có. Cô lớn lên dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc nhưng cũng đầy sáng tạo của người mẹ. Ở tuổi đôi mươi, Thérèse thu hút người khác bởi gương mặt xinh xắn, y phục đoan trang và lòng bác ái dành cho người nghèo.

Năm 19 tuổi, Thérèse chấp thuận lời cầu hôn của chàng quý tộc Claude des Bassablons và trở thành Madame des Bassablons. Những năm đầu của đời sống hôn nhân, Thérèse trải qua nhiều đau khổ bởi tư tưởng vô thần của chồng. Tuy nhiên, cô luôn tôn trọng, kiên nhẫn và sống hết lòng với chồng. Kết quả là những tư tưởng của ông Bassablons dần dần biến đổi. Cuối cùng, ông trở lại với niềm tin thời thơ ấu của mình. Từ đó, hai vợ chồng sống rất hài hòa và hạnh phúc. Riêng Madame des Bassablons thì còn vui mừng hơn nữa vì đứa con đầu lòng sắp chào đời. Nhưng đau đớn thay, chỉ sau vài ngày thấy mặt cha mẹ, em bé đã vội ra đi. Sau mất mát đó, cô Bassablons dành nhiều thời gian để giúp đỡ người nghèo hơn. Lúc này, chồng cô không những tham gia vào công việc bác ái này mà còn cảm thấy thích thú với nó.

Một tối nọ, người gác đêm của thị trấn tay rung chuông, vừa chạy khắp các con đường vừa la lớn: “Hãy cầu nguyện cho linh hồn ông Claude des Bassablons”. Ngày ấy, Madame des Bassablon mới 23 tuổi. Goá chồng lại không có con, Madame des Bassablons về sống với cha của mình cũng đang góa. Hai cha con sống bình yên và hăng hái giúp đỡ người nghèo. Sau 8 năm, người cha bỏ cô mà về cùng Chúa. Quà tặng quý giá nhất mà người cha để lại cho cô chính là người nghèo.

Năm 1776, các bà trong nhóm bác ái thúc giục Madame des Bassablons đứng ra đảm trách công việc bác ái của nhóm. Kể từ đó, cô tổ chức nhiều hoạt động bác ái hơn. Trong thời kỳ Khủng bố, nhiều người tìm cách vượt biên. Các Linh mục bị truy bắt phải lẩn trốn từ nơi này qua nơi khác. Madame des Bassablons dùng ngôi nhà của mình ở Pont-Pinel làm nơi trú ẩn cho các Linh mục này.

Theo thói quen, mỗi mùa hè Madame des Bassablons đến sống tại Pont-pinel, gần nhà thờ Parame để gặp vị linh hướng của cô là cha Pierre J. de Cloriviere, S.J. Ngang qua cha Cloriviere, cô biết đến dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria. Cô là một trong số những người đầu tiên dâng mình cho Chúa trong Dòng này.

Công việc bác ái của Madame des Bassablons bị chính quyền để ý. Họ thuê những người hàng xóm của cô để theo dõi mọi hoạt động và những ai lui đến nhà cô. Bởi vậy, họ nắm chắc cô đang che giấu các Linh mục "phạm pháp" và âm thầm lên kế hoạch bắt giam cô.

Một buổi sáng tinh sương, nhóm cảnh sát ập tới khám xét nhà cô. Khi ấy, Madame des Bassablons đang bệnh nặng trên giường. Vì cô là một người được dân chúng hết sức kính trọng, nên cảnh sát sợ việc bắt cô giữa ban ngày sẽ gây náo động trong dân. Cho nên, họ ở đó canh giữ cô đến 8 giờ tối mới giải cô đến trại giam.

Cô bị giam trong một căn phòng rất chật chội cùng với 24 người khác. Cô bị giam hơn một năm nhưng không hề có cuộc xét xử nào. Người ta chỉ đến và đọc tên những người bị đem đi hành quyết, trong đó có tên Madame des Bassablons. Nghe tin ấy, các bạn tù của cô người thì ngất xỉu, người thì khóc than, khiến cô phải ra sức an ủi họ. Trước khi bị giải lên Paris chịu hành quyết, cô ao ước được xưng tội nhưng chẳng có Linh mục nào ở đó.

Cùng với 11 tù nhân khác, Bassablons đeo gông, đi bộ 18 ngày trời từ St. Malo lên Paris. Bất chấp số phận bi thảm phía trước và thái độ đối xử bạo tàn của lính áp giải, cô luôn giữ được sự bình thản và là người nâng đỡ tinh thần cho các bạn tù khác.

Tại Paris, chỉ một chút trước khi chịu tử hình, cha Cloriviere đã kín đáo giải tội cho cô từ xa. Bí tích này đã thêm sức cho cô can đảm bước lên pháp trường để chịu phúc tử vì đạo ngày 21 tháng 6 năm 1794.

"Madame des Bassablons đã mở đường tới Thiên đàng
cho các Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria
trước cả khi Hội dòng đâm rễ sâu vào lòng thế giới."

(Lời cha Cloriviere an ủi cô Cicé, bề trên tiên khởi nhánh nữ lúc giờ)


Nữ tu bác sĩ Ruth Plau



Một gương mặt rất tiêu biểu của dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria trong thế kỷ 21 này là bác sĩ Ruth Pfau, người được mệnh danh là “mẹ người phong” hay “Mẹ Têrêsa của Pakistan”. Ngày bà qua đời, nhiều hãng truyền thông trên thế giới đồng loạt đưa tin và chính phủ Pakistan quyết định tổ chức quốc táng cho bà. Với người dân Pakistan, bác sĩ Ruth Pfau không phải là người xa lạ, mặc dù bà là người Đức. Suốt 57 năm sống và làm việc tại Pakistan, bà đã giúp đẩy lùi bệnh phong ở quốc gia này và để lại 157 cơ sở chữa trị trên khắp cả nước.

Sinh ra và lớn lên tại Leipzip, miền Đông nước Đức, trong một gia đình Tin Lành, Ruth là con thứ tư trong một gia đình có sáu anh chị em. Ngôi nhà của cô bị bom phá huỷ trong cuộc chiến Xô – Đức. Vào cuối cuộc chiến, khi Ruth được 17 tuổi, em trai cô qua đời vì thiếu thực phẩm và thuốc men. Điều này để lại một vết thương sâu trong lòng Ruth. Cô tự nói với chính mình: “Chuyện này không bao giờ được phép lặp lại nữa”. Sau cuộc chiến, Đông Đức nằm dưới quyền kiểm soát của Xô Viết nên gia đình cô quyết định chuyển qua Tây Đức. Vào những năm 1950, cô học y khoa tại Mainz, rồi sau đó học chuyên khoa tại Bonn.

Cũng trong thời gian này, cô quen biết những người bạn say mê linh đạo I-Nhã rồi dần dần cải sang đạo Công giáo. Nhờ một tu sĩ Dòng Tên, cô trở thành nữ tu dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria vào năm 1957.

Năm 1960, bề trên sai cô qua phục vụ tại miền nam Ấn Độ. Trên đường đi, cô bị kẹt lại khoảng một năm rưỡi ở Karachi, Pakistan vì không xin được visa vào nước Ấn. Trong khi chờ đợi, cô đi thăm một trung tâm chăm sóc nhỏ của dòng. Giây phút cô nhìn thấy một người trẻ mắc bệnh phong bò trên nền dơ bẩn bằng hai tay hai chân đã hoàn toàn thay đổi đời cô. Cô xin bề trên đổi bài sai và quyết định này chuyển đời cô sang một hướng khác.

Cô bắt đầu học ngôn ngữ và ăn mặc như những phụ nữ Pakistan. Trong một đất nước Hồi giáo như thế này, là một phụ nữ, lại là một phụ nữ Công giáo Tây phương, cô gặp khó khăn gấp ba lần người bình thường. Nhưng cô chọn phục vụ tại đây.

Ở tuổi 31, cô bắt đầu chữa trị cho các bệnh nhân phong và giúp họ hoà nhập cộng đồng. Năm 1963, với sự hỗ trợ từ Đức, cô mở phòng khám đầu tiên tại Karachi. Dần dần, nơi đây trở thành bệnh viện chuyên điều trị bệnh phong và được đặt tên là Marie Adelaide Leprosy Centre (MALC). Để có thêm nhiều chuyên viên, cô bắt đầu huấn luyện đội ngũ y bác sĩ cho trung tâm. Dưới sự hướng dẫn của cô, trung tâm MALC dần được công nhận là Học viện đào tạo cấp quốc gia về bệnh phong vào năm 1971.

Chính phủ Pakistan sớm nhận ra những đóng góp tích cực của bác sĩ Ruth Pfau nên đã mời cô làm cố vấn cho Chương trình Kiểm soát Bệnh phong tại Pakistan. Vào những năm 1980, vẫn có khoảng 20 ngàn ca bệnh phong mỗi năm tại Pakistan, nhưng đến năm 2016, con số chỉ còn lại hơn 500 ca. Với những thành tựu như vậy, Pakistan trở thành một trong những quốc gia Châu Á chế ngự bệnh phong tốt nhất.

Không chỉ chiến đấu chống lại bệnh phong ở Pakistan, bác sĩ Ruth còn bí mật cưỡi lạc đà qua Afghanistan chữa trị cho các bệnh nhân phong. Tại đây, bà cũng mở trung tâm và đào tạo nguồn nhân sự tại chỗ. Trong những chuyến đi xa như thế này, bà luôn mang theo Thánh kinh và trung thành với giờ cầu nguyện hằng ngày của bà.

Khi bệnh phong cơ bản đã được kiểm soát tại Pakistan, trung tâm MALC bắt đầu mở rộng sang điều trị lao phổi và các bệnh về mắt. Tính tới năm 2017, trung tâm đã chữa trị cho khoảng 50 ngàn người.

Bởi những đóng góp to lớn cho người dân, bà nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm giải Albert-Scheweitzer vào năm 2004, giải “Người phụ nữ của năm” của đài phát thanh Pakistan năm 2006, giải “Nữ anh hùng thầm lặng” của đài truyền hình Bambi, Đức năm 2012. Bà cũng viết nhiều sách để chia sẻ kinh nghiệm, tình yêu, những thao thức và niềm vui sứ vụ. 


Một số sách rất sống động do bà viết như Không thể sống mà không yêu (Can't live without love), Trái tim có những lý lẽ riêng (The heart has its reasons), Đời tôi thật điên rồ (My life, pure madness), Tình yêu không chất vấn (Love is no why), Lời cuối là tiếng yêu (The last word is love), Sống là điều gì hơn nữa (Living is something else).

Tháng 4 năm 2017, bà bị té nhưng vẫn tiếp tục đi thăm các bệnh nhân trên xe lăn. Ngày 30 tháng 5 năm 2017, khi đang trên giường bệnh, bà xin tuyên khấn lời khấn trọn đời, biểu lộ một cách công khai rằng đời tu rất quan trọng đối với bà. Ngày 10 tháng 8 năm 2017, lúc 4 giờ sáng, bà nhẹ nhàng ra đi ở tuổi 87. Cũng ngày hôm đó, dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria khai mạc Tổng tu nghị bầu Tổng quyền mới.

Tang lễ bác sĩ Ruth Pfau được cử hành trọng thể tại nhà thờ chính toà Saint Patrick ở Karachi vào ngày 19 tháng 8 năm 2017 và được chôn cất tại nghĩa trang Công giáo Pakistan. Có nhiều vị lãnh đạo cấp cao của Pakistan đã tuyên bố rằng bà sẽ xuất hiện trong sách lịch sử của Pakistan hay một trong các bệnh viện lớn nhất của Pakistan sẽ mang tên bà, nhưng có một điều chắc chắn bà đã làm đó là xây những cây cầu giữa các nền văn hoá, tôn giáo và giới tính. Thực ra, cuộc chiến dài nhất, khó khăn nhất mà bác sĩ Ruth Pfau đối diện không phải là cuộc chiến chống lại bệnh phong, mà là “Cuộc chiến phục hồi nhân phẩm” như bà từng chia sẻ.



Tiểu sử Mẹ sáng lập Adelaide de Cice


Vị Đồng Sáng Lập Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria (DHM)

Hãy khám phá cuộc đời của cô gái trẻ đến từ một gia đình quyền quý, người đã trở thành vị đồng sáng lập của một lối tu trì mới. Đối mặt với thời kỳ bão tố của cuộc Cách Mạng Pháp, cùng với các bạn cùng chí hướng, cô đã can đảm dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và phục vụ người nghèo.


Thiếu thời
Adelaide sinh ngày 5 tháng 11 năm 1749 tại Rennes, miền Tây Bắc nước Pháp, trong một gia đình quý tộc. Cô là con thứ 12 của ông Jerome de Cicé và bà Marie de Varennes. Khi mang thai cô, mẹ cô đã rất lo lắng, nhưng cha linh hướng của bà an ủi rằng: “Bà đừng sợ! Cháu bé sẽ là niềm an ủi cho bà sau này”.
Lúc Adelaide chưa đầy một tuổi thì cha qua đời, để lại gánh nặng nuôi dạy con cái cho người mẹ sức khỏe yếu kém. Tuy nhiên, bà thường nói với cô về Chúa Giêsu và sự tốt lành của Ngài, nên Adelaide đã hướng lòng lên Chúa ngay từ những ngày còn rất nhỏ.
Thời gian dần trôi, Adelaide lớn lên dưới mái nhà của gia đình ở Rennes và dần nhận ra quanh cô có rất nhiều người nghèo. Cô muốn chăm sóc họ và càng phục vụ, cô càng say mê công việc này.
Khi 15 tuổi, Adelaide một mình chăm sóc mẹ già bởi vì các anh chị đã lần lượt đi xa. Cô trở thành nguồn an ủi cho mẹ đúng như lời đã tiên báo. Hai mẹ con rất gắn bó với nhau và thường tham dự các khóa tĩnh tâm chung.

Kiếm tìm một con đường
Adelaide sớm nhận ra cô có ơn gọi dâng hiến nhưng cô tìm kiếm một đời tu vừa có thể ra ngoài phục vụ người nghèo lại vừa sống triệt để ba lời khấn tu trì. Vào thời điểm đó, tu sĩ chỉ sống trong tu viện chứ không ra ngoài phục vụ, cho nên ao ước của Adelaide là điều không tưởng. Vì quá khao khát dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa nên tháng 4 năm 1777, cô vào Nhà Tập dòng Thăm Viếng tại Rennes. Do không thể xa con gái, mẹ cô cũng chuyển vào trọ trong Dòng nhưng không được bao lâu, anh trai của cô là Jean Baptist, Giám mục Auxerre, đã buộc cô phải trở về nhà để tiếp tục chăm sóc mẹ.
Trở về nhà, cô sống những năm dài phục vụ mẹ với tất cả tấm lòng cho đến khi bà qua đời vào ngày 17 tháng 1 năm 1784. Khi ấy, Adelaide đã 35 tuổi. Đối với cô, đó là khởi đầu của một đời sống mới.
Còn lại một mình với khao khát trở nên một tu sĩ và phục vụ người nghèo, Adelaide đến ở với các Nữ tu dòng Cát Minh vài tháng. Cô thích dành thời gian để ở lại với Chúa Giêsu nhưng cô cảm thấy một sự thúc đẩy cô đi phục vụ người nghèo. Cô tham gia nhóm “Qúy Bà Phục Vụ Bệnh Nhân Nan Y”; nhưng lại không tìm thấy một cộng đoàn tu sĩ đích thực tại đó. Rồi cô lại tham gia nhóm “Qúy Bà Phục Vụ Nhà Tĩnh Tâm”; nhưng đây chỉ là một hiệp hội bác ái chứ không phải dòng tu vì họ không sống lời khấn vâng phục. Những trải nghiệm trên giúp Adelaide xác định rõ hơn mục tiêu và là nguồn cảm hứng để cô viết bản Kế Hoạch về một Hội Dòng vào năm 1785. Nhưng cô có thể tìm được sự trợ giúp nơi đâu?

Ngọn gió Thánh Thần
Kiệt sức vì phục vụ người nghèo, Adelaide đến nghỉ dưỡng tại dòng Ursuline tại Dinan. Chính nơi này lần đầu tiên cô gặp cha Cloriviere vào tháng 9 năm 1786. Adelaide vui mừng vì tìm được một người linh hướng. Cô chia sẻ với cha về bản Kế Hoạch của cô và cha giúp cô xác định rõ hơn điều Chúa muốn.
Sau một thời gian đồng hành, cha Cloriviere chấp thuận cho Adelaide thử nghiệm kế hoạch của cô tại dòng Nữ Tử Thánh Giá trong tư cách một Tập sinh vào tháng 9 năm 1788, dưới sự hướng dẫn của Mẹ Marie de Jesus. Trong khi đó, những dấu hiệu đầu tiên của cuộc Cách Mạng Pháp đang đến gần.
Vào sáng ngày 19 tháng 7 năm 1790, cha Cloriviere nhận được ơn soi sáng về một lối tu trì mới: sống đời dâng hiến và phục vụ tha nhân giữa lòng thế giới. Kế hoạch này có nhiều điểm giống với điều mà Adelaide đã tìm kiếm từ lâu.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 1791, những thành viên đầu tiên của hai hội Dòng đã tuyên khấn trước nhan Thiên Chúa. Tên của Adelaide được cha Cloriviere thêm vào trong danh sách của tài liệu thành lập Dòng. Vài tháng sau, cha mời cô đến Paris để đồng hành với các chị em chuẩn bị gia nhập Dòng.

Tù đày và an nghỉ
Tại Paris, Adelaide bị cảnh sát theo dõi. Bị tình nghi, cô bị cầm tù trong ba tuần rồi được tha. Tuy nhiên, một năm sau đó, cô lại bị kết án là có dính líu tới một cuộc nổi loạn và lại bị cầm tù và bị xét xử vào tháng 4 năm 1801. Thật ngạc nhiên cho vị thẩm phán khi thấy hơn 60 người đứng lên biện hộ cho cô ngay giữa tòa án. Họ nói về những việc tốt mà cô đã làm cho họ. Cuối cùng, hội đồng xét xử đồng ý tha bổng cho Adelaide. Ngay sau khi được tự do, cô lại tiếp tục phục vụ người nghèo.
Adelaide thay cha hướng dẫn hai Hội Dòng trong thời gian cha bị cầm tù (1804-1809). Khi gặp lại các chị em, Cloriviere đã nhận xét về Adelaide như sau: “Các con đã trưởng thành nhiều dưới sự hướng dẫn của cô ấy hơn là những năm tháng dưới sự hướng dẫn của cha”.
Hết lòng với sứ vụ, sức khỏe của Adelaide yếu dần. Đầu năm 1818, bệnh phổi của cô trở nên trầm trọng. Mỗi sáng, các chị em đặt cô trên một chiếc ghế dài, đối diện với Nhà Tạm. Chính vị trí này mà rạng sáng ngày 26 tháng 4 năm 1818, cô chìm vào giấc ngủ thiên thu một cách êm đềm.

Ngày đưa tiễn của Adelaide gợi nhớ ngày cô bị đưa ra tòa xét xử vì có rất đông người nghèo đến để tiễn biệt cô, vị ân nhân của họ.

Giới thiệu tổng quát

Dòng Nữ tử Trái Tim Mẹ Maria là một hội dòng thuộc quyền Giáo hoàng, được thành lập từ năm 1791 tại Paris, Pháp. Giữa bối cảnh xã hội đầy thách thức, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một lối tu trì mới đầy năng động để duy trì đời sống tu trì đích thực cho Giáo Hội và để phục vụ cho các nhu cầu của xã hội; ngang qua mơ ước của cô Adelaide và ơn linh hứng của cha Cloriviere, S.J.

Lễ mừng
Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria – ngày 8/2 hằng năm.

Tên gọi
"Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria" (DHM) gợi lên một tình yêu và lòng kính trọng đặc biệt dành cho Mẹ Maria. Chúng tôi chiêm ngắm Trái tim Mẹ và bắt chước các nhân đức của Mẹ. Chúng tôi bước theo Chúa Giêsu như Mẹ.

Tinh thần
Dòng mang đậm nét tinh thần cởi mở của Đức Giêsu và ao ước làm mọi sự cho vinh danh Chúa, lợi ích cho Giáo Hội và ơn cứu rỗi cho các linh hồn. Chính bối cảnh ra đời đã gắn kết Hội Dòng với tinh thần và lối sống của Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi là trung thành với Đức Kitô, gắn kết với Giáo hội và phát huy tình huynh đệ, “một lòng một ý” (Cv 4,32).
Hội Dòng không tìm kiếm gì cho riêng mình, nhưng mong ước trong mọi sự đều được linh hoạt bởi tinh thần của Đức Kitô” (Hiến pháp 1818, Lời khấn vâng phục, số 7).

Sứ vụ
Hội Dòng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của thời đại và nơi chốn, trong sự phân định về khả năng của các thành viên. Dòng không có một sứ vụ riêng biệt nào.

Đặc tính
Để có thể hoàn thành được sứ mạng của mình giữa lòng thế giới trong một lối sống đặc thù, Hội Dòng có một số đặc nét như sau:
  • Lòng yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái tim Mẹ Maria tạo nên một linh đạo trái tim, linh đạo của tình yêu và những nhân đức nội tâm.
  • Yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và có cùng cảm nghĩ với Giáo hội.
  • Phân định (discernment of spirit) để nhận biết đâu là thiên ý hầu có thể bắt đầu hoặc kết thúc một sứ vụ, giữ nguyên hiện trạng hay cải tiến, tiếp tục ở lại hay di chuyển, và để ưu tiên cho lợi ích của Giáo hội và người khác.
  • Kiên định và uyển chuyển (firm and flexible), can đảm và thận trọng (daring and prudent), và luôn luôn ứng trực (continual availability) để có thể vừa theo đuổi một đời sống tu trì đích thực và thách thức, vừa có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của sứ vụ.
  • Tầm nhìn bao trùm (Wide breadth); về sứ vụ – mọi ngành nghề liêm chính; về địa dư – “sao không trên toàn thế giới?” (Cha Cloriviere); về đối tượng – trinh nữ và góa phụ; về chỗ ở – cộng đoàn, gia đình...

Huấn luyện
  • Giai đoạn tìm hiểu: tối thiểu 6 tháng
  • Giai đoạn đệ tử: tối đa 2 năm
  • Giai đoạn tiền tập: tối đa 2 năm
  • Giai đoạn nhà tập: tối thiểu 2 năm, tối đa 4 năm
  • Giai đoạn khấn sinh: tối thiểu 5 năm, tối đa 9 năm.

Lắng nghe và thao thức

Bạn cảm thấy mình được mời gọi bước theo Đức Kitô, dấn thân trong đời sống dâng hiến theo linh đạo Nữ tử Trái Tim Mẹ Maria?
Bạn…
  • Là nữ Kitô hữu, sống độc thân
  • Tuổi từ 18 trở lên
  • Đã tốt nghiệp phổ thông trung học
  • Có sức khỏe tốt
  • Yêu mến đời sống cầu nguyện và nhiệt tâm tông đồ
  • Yêu mến bí tích Thánh Thể và Mẹ Maria.
Chúng tôi tiếp nhận các bạn đến tìm hiểu vào mọi thời điểm trong năm.

Liên lạc
Địa chỉ: 623/20/33 Cách Mạng Tháng Tám, P. 15, Q. 10, Tp. HCM
ĐT: 083 309 5571 (gặp chị Trang)


Nền tảng Kinh Thánh của Linh đạo DHM

Lắng nghe Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn, cha sáng lập Cloriviere đã chọn bốn câu Lời Chúa để làm kim chỉ nam hướng dẫn linh đạo Hội Dòng.

  1.        “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!” (Ga 2, 5)

Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria không làm gì mà trước tiên không dành thời gian để lắng nghe ý Chúa qua sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi luôn giữ một thái độ khiêm tốn và nhạy bén với những tác động của Thánh Linh ngay trong đời thường, trong các dấu chỉ thời đại, trong những chỉ dẫn của Giáo Hội và Hội Dòng.

Chính Đức Maria, Mẹ của Hội Dòng nhắc nhở chúng tôi về điều này. Lời Mẹ bảo đảm rằng các nhu cầu khác nhau của nhân loại có thể được đáp ứng khi chúng tôi sống tinh thần phân định và ứng trực. Khi làm theo lời Mẹ, chúng tôi tin chắc rằng chính Đức Giêsu sẽ làm cho rượu ngon luôn tràn trề

2.   “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19, 27)

“Con gái của trái tim Mẹ”. Đó luôn phải là danh xưng của từng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria. Với lòng biết ơn Đức Giêsu cách sâu xa vì Ngài đã “nhượng lại” người mẹ kính yêu để làm mẹ chúng tôi, mẹ của cả nhân loại. Là con gái Mẹ, chúng tôi tôn kính, yêu mến và tin tưởng phó thác nơi sự che chở của Mẹ; và bắt chước các nhân đức trong trái tim Mẹ.

3.  “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 15)

Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria được đặt giữa thế giới bằng một đời sống đơn sơ, và trong nhiều cảnh huống khác nhau. Chúng tôi “sống giữa thế gian... nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15, 19). Chúng tôi tự tin vì chính Đức Giêsu bảo đảm cho sự miễn nhiễm đối với tinh thần thế gian của mình bằng lời cầu xin với Cha.


4.   “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa…Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.” (Ga 15, 15)

Một sự gắn kết trong chiều sâu của tình yêu cá vị với Đức Giêsu sẽ giúp Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria mang lại những hoa trái tông đồ. Tình yêu ấy được vun đắp qua một đời sống ưu tiên cho cầu nguyện tâm trí, gắn bó với Thánh Thể và rèn luyện các nhân đức. Hầu có thể nhìn thấy Chúa trong mọi sự và nhìn mọi sự trong Chúa.

Như thế, các Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria được đặt ở giữa Trái Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria, hầu có thể sống linh đạo tình yêu ngang qua cung cách hiện diện cách bình dị giữa lòng thế giới. Với ước mong trở nên men muối giữa lòng đời, Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria bám sâu vào căn cốt của một đời sống tu trì, đồng thời bám vào lòng đời như môi trường tông đồ không thể tách rời.