Dòng Nử Tử Trái Tim Mẹ Maria (DHM)

27/7/19

Lịch sử hình thành Dòng





Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria được thành lập năm 1791 tại Paris, Pháp. Đây là sự kết hợp ơn soi sáng giữa mẹ Adelaide de Cice và cha Pierre de Cloriviere.



Ngay từ lúc còn nhỏ, Adelaide de Cice (1749-1818) đã ao ước tận hiến cho Chúa trong đời tu nhưng lại có thể phục vụ những người đau khổ bên ngoài tu viện. Vào năm 1785, mẹ phác thảo lối nhìn này trong bản Kế Hoạch.

Vào sáng ngày 19 tháng 7 năm 1790, một thời gian sau khi cuộc Cách Mạng Pháp nổ ra, cha Pierre de Cloriviere, S.J. (1735-1820) nhận được ơn soi sáng: “Một ý nghĩ chợt bừng sáng và lay động tôi. Nhanh như tia chớp, nhưng lại thật chi tiết đến mức tuyệt vời. Cả một lối sống được tỏ lộ cho tôi cách rõ ràng, như tôi vừa phác thảo lại.” Bản phác thảo này đã được trình với Đức Giám Mục và được ngài ủng hộ.

Vào ngày 18 tháng 8 năm 1790, khi đang hoàn chỉnh bản phác thảo về một hội dòng cho nam giới, cha cảm thấy được thúc giục về việc viết một bản kế hoạch sống cho nữ giới. Bản kế hoạch này có nhiều điểm chung với bản Kế Hoạch của Adelaide de Cice.

Ngày 2 tháng 2 năm 1791, những thành viên đầu tiên của dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria đã làm nghi thức dâng hiến tại nhà thờ Montmart, Paris và tại Brittany. Cùng ngày hôm đó, Hội Dòng chính thức được thành lập với Bản Cam Kết Thánh hiến (Act of Consecrations) do các thành viên ký. 

Tháng 11 năm 1791, cha mời cô Cice đến Paris để hướng dẫn cho các chị em.

Vào ngày 19 tháng Giêng năm 1801, Đức Giáo Hoàng Piô VII đã chuẩn nhận bằng lời cho Hội Dòng mới này.

Ngày 24 tháng 4 năm 1857, Đức Giáo Hoàng Piô IX châu phê chính thức bằng văn bản và công nhận đây là Hội Dòng thuộc quyền Giáo Hoàng, mang tên Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria.

Ngày 18 tháng Giêng năm 1890, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã chuẩn y Hiến Pháp lần cuối cho Hội Dòng.

Trung thành với đặc sủng, Hội Dòng tiếp tục phục vụ Giáo Hội và thế giới tùy theo nhu cầu của nơi chốn và thời đại.

Nắm men nhỏ bé Thiên Chúa đã vùi vào trong đấu bột nhân loại từ cuối thế kỷ XVIII nay đã lan rộng trên 30 nước để tiếp tục sống sứ mạng làm men làm muối ướp trần gian.

27/6/19

FRANCIS CHOIR (FC)


“Mọi người cứ nói là em giỏi, chứ bản thân em thấy mình chỉ cố gắng làm tốt những gì mình có thể thôi. Phần còn lại là em cậy vào tay Người (Thiên Chúa) đấy! Điều làm em hạnh phúc nhất là có Người để em trút hết những lo lắng, mệt mỏi; nhất là khi em đã cố gắng hết mình.” 

Lời bộc bạch rất mộc mạc và chân thành từ “ca trưởng Thịnh” (cái tên mà anh chị em hay gọi) đã làm ấm lòng và truyền cảm hứng cho bao người trên xe trong chuyến đi Bến Tre của ca đoàn Francis vào ngày 23 tháng 6 vừa qua.

Chuyện là thế này. Đã hơn hai năm sát cánh bên nhau trong phục vụ, bao lần FC thầm ao ước có ngày đi thăm nhà nhau, đi chơi với nhau và dành nhiều thời gian hơn để ở bên nhau. Thế rồi cái ngày đó cũng đã đến: Bến Tre. Một chuyến đi ẩn chứa nhiều mục đích: thăm gia đình chị Hiền nhân dịp đám giỗ, hành hương Đức Mẹ La Mã, và đi vườn trái cây. Tuy nhiên, mục đích sâu xa hơn cả vẫn là để ở bên nhau và trò chuyện với nhau.

Không chỉ cùng dự lễ Mình và Máu Thánh Chúa với cộng đoàn, FC còn nhận lời hát lễ tại họ đạo La Mã. Ca trưởng Thịnh hai tay bốn việc: một tay đánh đàn, một tay phất nhịp, miệng hát solo và nhướn toàn thân lên để truyền tinh thần cho anh chị em trong ca đoàn. Chỉ có vài tiếng tập dợt trên xe, vậy mà tiếng hát ấy cũng đủ làm nức lòng bao người nơi đất khách. Những đôi mắt mở to nhìn nhóm người lạ đang cất giọng ca!

Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy lửa của Đoàn trưởng Thùy Trang; sự cộng tác hết mình của từng thành viên FC, cùng với sự đón tiếp nồng hậu, cởi mở và đơn sơ của gia đình chị Hiền; và trên hết là tình yêu và quan phòng của Thiên Chúa, FC đã có một ngày tuyệt vời và đáng nhớ.

Sự bình an, niềm vui sâu xa và sự gắn kết tình thân là những gì đọng lại trong mỗi thành viên khi trở về lại với cuộc sống thường nhật của mình.

Niềm vui đơn sơ là thế! Đôi khi chỉ cần một chút thời gian dành cho nhau, lắng nghe nhau cũng đủ làm sống dậy “thần thái” của bao người.

Tin Vui

------

11/6/19

Những cô thợ may chân chính


Nhà Bertonnet có hai chị em, Suzanne và Genevieve. Họ làm nghề may và sống với mẹ già tại Paris. Cả hai đều gia nhập dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria khi cuộc cách mạng Pháp đang ở đỉnh cao.

Xưởng may của họ chuyên may trang phục cho phụ nữ. Nhiều người muốn học nghề nên đến xin làm tại đó, họ đều được nhận. Vì vậy, xưởng may của hai chị em nhà Bertonnet được biết đến như là nơi bảo trợ.

Là thợ may, nhiều khi khách hàng đòi họ may những bộ cánh gợi cảm, nhưng trong thâm tâm, họ e ngại mốt thời trang này. Họ trình bày vấn đề này với Cha Cloriviere – vị sáng lập Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria. Cha trả lời như sau: “Hãy nói với những người khách đó rằng lương tâm của chúng tôi không cho phép chúng tôi may những kiểu quần áo đó. Rằng thà chúng tôi mất khách và chỉ may quần áo cho người già và trẻ em còn hơn là may những bộ cánh đó.”

“Nhưng làm sao chúng con có thể phụng dưỡng mẹ già nếu chúng con mất khách?” hai chị em đặt câu hỏi.

“Đừng sợ các con! Hãy vững tin!” Cha Cloriviere khích lệ.

Hai chị em vâng lời và can đảm từ chối may những bộ đồ thiếu đoan trang. Thật không ngờ, những bộ y phục trang nhã và lịch sự họ may ngày càng được ưa chuộng. Chẳng bao lâu, số khách tăng nhanh đến nỗi họ phải thuê gấp đôi số nhân viên.

Suzanne và Genevieve đã mang lại những ảnh hưởng rất tích cực, không chỉ trong xưởng may của họ mà còn lan tỏa đến tầng lớp quý tộc, thượng lưu thời bấy giờ.

Gương sống của hai chị em nhà Bertonnet khiến chúng ta phải suy ngẫm. Điều đơn sơ nhất có thể mang lại những giá trị tốt đẹp – miễn là nó được sử dụng tốt và có định hướng.

(Ảnh: Gettyimages)

13/5/19

Vòng ôm


Tôi bắt đầu làm PA (Personal Assistant) khi căn bệnh ung thư của ba tôi đã tới giai đoạn cuối. Bệnh viện chê, trả về. Hai chân ba đã liệt. Mỗi sáng tôi đẩy xe lăn ra hiên cho ba ngồi phơi nắng. Tôi thích đứng phía sau, nhìn ánh sáng trinh trong chiếu qua mái tóc bạc của ba linh lang, ngập tràn. Một ngày mẹ tôi bảo: “Con không thể ở nhà mãi được. Con phải tiếp tục con đường của mình. Ở nhà đã có mẹ rồi. Đừng lo”. Tôi trở lại Sài Gòn giữa một chiều đỏ ối, lòng vụn vỡ. Mỗi cột mốc km vụt qua, tôi lại thấy mình như đang trôi về một cực xa lắc của hy vọng.

Giữa thành phố vội vã, tôi gắng tìm một điểm để neo mình lại, mong qua đó, tôi lấy lại cân bằng nhưng công việc cứ như bão tố cuốn tôi đi. Một chiều ngang qua Trung tâm Ung bướu, nhìn những chiếc xe lăn ra vào, tôi biết mình cần chuyển việc. Tôi trở thành PA. Tôi đến nhà các bạn khuyết tật, trò chuyện, nấu nướng, chở các bạn đi học, đi làm, đi chơi hoặc đi bất cứ nơi đâu mà bạn ấy muốn. Đi qua những ngày nắng, ngày mưa, những giờ kẹt xe, chờ đợi, tôi là một PA. Nhưng giữa tất cả những công việc của một PA, điều an ủi nhất và cũng đau đớn nhất với tôi chính là mỗi vòng ôm.

Mỗi lần cúi xuống bế một bạn khuyết tật, tôi lại thấy hình ảnh ba hiện ra. Tôi thấy ba như đang giơ tay ra cho tôi nắm, mong mỏi tôi xốc thân hình cạn kiệt sức sống của ba lên. Trong cái khoảnh khắc đó, tôi vội vã lao đến, dốc hết sức bế cho được người ngồi trong xe lăn lên mặc dù tôi biết đó không phải là ba. Cái cảm giác ôm một người trong tay cho tôi một niềm an ủi lớn lao như chính tôi đang ôm phần thiếu thốn của mình. Tôi thấy người tràn đầy năng lượng. Cánh tay, đôi chân tôi trở nên cứng cáp đủ để chịu được sức nặng của người khác. Lòng tôi hân hoan vui sướng như đứa trẻ được quà. Tôi sẽ tranh thủ lúc ôm, hôn lên mái tóc bạn ấy thật nhẹ giống như ba hay làm khi tôi còn nhỏ. Rồi tôi thấy hiện lên tất cả những gì mà tôi yêu mến. Gia đình, bạn hữu, học trò của tôi, những vùng đất tôi đã đi qua, những yêu thương tôi đã để lại trên đường, và cả những người đã làm tôi đau. Tôi ôm tất cả vào lòng, mạnh mẽ và sống động như khi tôi xiết chặt cánh tay chị Muội lúc chạy xuống cầu thang. Nhưng khi rời vòng tay, một nỗi đắng cay cũng êm dịu xen vào. Nó nhắc tôi về thực tại dang dở chưa một lần dám ôm ba, về sự xa cách không gian, về những ước ao chẳng biết đến bao giờ mới chạm được. Giữa hai cảm giác mâu thuẫn giằng xé, tôi vẫn thầm cám ơn những người đang cho (hay bắt) tôi ôm.

Một trưa hè, mẹ gọi điện, giọng hối hả, lo âu: “Ba yếu lắm rồi, con sắp xếp về ngay đi”. Tôi chạy như bay trên đoạn đường mưa lâm thâm, không biết mưa hay nước mắt cứ nhạt nhòa, lênh láng. Hai ngày sau ba đi, thanh thản, nhẹ nhàng giữa khi tôi đang chuẩn một vòng ôm.
Sau đám tang hai tuần, tôi trở lại Sài Gòn, chẳng thể gọi tên bất kỳ cảm xúc gì ngoài nỗi trống rỗng. Tôi như bị đánh trúng tử huyệt. Tâm hồn tôi rách nát, đau thương. Tôi dự tính nghỉ việc.

Một chiều muộn chở chị Muội từ Q.3 về Hóc Môn, giữa đường trời mưa to. Tôi ghé vội một trạm xăng, trạm đầy người trú mưa, loay hoay mãi đến khi tìm được chỗ ngồi cho chị thì hai chị em đã ướt như chuột lột. Không hiểu sao trong cái giây phút đó, tôi thấy giận bản thân mình ghê gớm, giận cả sự bất lực và nhiệt tình của mình. Còn chị thì điềm nhiên. Dường như với chị, ướt hay khô, mưa hay tạnh cũng thế thôi. Chị đã quen và chấp nhận chúng như quy luật tự nhiên. Hốt nhiên tôi nhìn lại những hỗn độn trong lòng mình. Chẳng phải cho tới giây phút này tôi vẫn không chấp nhận sự ra đi của ba đó sao? Tôi vẫn không tin đó là sự thật. Tôi không muốn thừa nhận cái quy luật sinh ly tử biệt của cuộc đời. Nhưng cuộc đời chẳng cần biết đến nỗi đau của tôi. Nó vẫn thản nhiên quay, mặc kệ tôi sống chết. Còn tôi, tôi có muốn sống nữa không?

Mưa tạnh. Tôi bế chị lên xe. Đôi chân chị bất động, lỏng lẻo dính vào cơ thể. Mỗi lần bế chị, tôi lại có cảm tưởng như đang ôm một bình thủy tinh, phải rất nhẹ nhàng, cẩn thận kẻo bể mất. Thế nhưng, ở chị có một sức mạnh nội tâm to lớn khiến mỗi lần nhìn chị, tôi nghĩ tới câu hát “May mà có em, đời còn dễ thương”. Chị dễ thương vì sức sống tiềm tàng trong chị. Sức sống ấy vượt qua mọi tật nguyền, mọi khắc nghiệt để vươn lên như chồi xanh giữa sa mạc khô cằn. Tôi không tật nguyền, nhưng lại thiếu sức sống.

Chúng tôi tiếp tục đi. Đầu tôi vang lên những quy luật cuộc đời.

Tôi không biết mình thoát ra khỏi tình trạng sa sút chính xác vào lúc nào. Tôi chỉ nhớ chiều hôm ấy mặt đường ướt át, trong đầu tôi đầy những quy luật sống. Sau lưng tôi là một người ham sống. Và tôi cần tiếp tục sống.
Khi bầu trời đã xanh trở lại thì cũng là lúc tôi thấy mình không thể ích kỷ, bám víu hoài các bạn khuyết tật được nữa. Tôi biết mình phải ra đi vì ở lại là đông cứng và giậm chân tại chỗ. Tôi phải đi để hoàn thiện chính mình và tìm kiếm cơ hội trở lại. Nhưng ngay cả khi tôi rẽ qua một ngả đường khác, thì các bạn yêu dấu ơi, tôi vẫn mang hình bóng các bạn trong tim và dâng lên Thượng đế lời nguyện cầu mỗi đêm.
TT
(ảnh: Kathy Whaley Ammon)


11/5/19

Đặc nét linh đạo DHM - Men trong bột

Ngày nay, hình ảnh các nữ tu đi tới những vùng truyền giáo xa xôi hay len lỏi vào những con phố để thăm viếng người nghèo, người già, tới bệnh viện trao Mình Thánh Chúa hoặc đứng lớp dạy học là chuyện bình thường đối với người Công giáo. Thế nhưng vào thế kỷ XVIII, người ta không tưởng tượng nổi một nữ tu lại có thể bước ra khỏi cánh cổng tu viện để dấn thân vào đời. Bởi vì công đồng Trento (1545-1563) quy định các nữ tu phải tuân giữ luật nội vi chặt chẽ. Phải chờ đến cuối thế kỷ XIX thì Tòa Thánh mới châu phê các dòng nữ sống ngoài nội vi.[1] Chính vì thế, sự xuất hiện của Dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria (DHM) vào năm 1791 với đường lối “sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian” là điều gì đó rất khác biệt.

Sống giữa thế gian…

Trước hết, sự khác biệt này đã được Thiên Chúa đã chuẩn bị trong âm thầm, lặng lẽ nơi cõi lòng cô Adelaide de Cice, một phụ nữ quý tộc người Pháp một lối sống thuộc trọn về Chúa trong đời sống tu trì và phục vụ người nghèo trong mọi bối cảnh xã hội. Thế nhưng vào thời ấy, không một tu viện nào có lối sống như vậy. Adelaide vẫn kiên trì tìm kiếm lối sống đó trong suốt 13 năm cho đến khi gặp được cha Pierre de Cloriviere, dòng Tên. Cha đã lắng nghe tâm tư của cô, linh hướng và từng bước giúp Adelaide xác tín vào lời mời gọi của Thiên Chúa trên cuộc đời cô. Năm 1789, cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, một cách nào đó đã gián tiếp biến ước mơ của Adelaide thành hiện thực.

Ngày 19 tháng 7 năm 1790 cha Cloriviere nhận được ơn linh hứng về một lối tu mới rất hữu ích cho Giáo hội. Cha lập tức chia sẻ điều này với các Đấng Bản quyền và nhất là với Adelaide vì nhận thấy nơi cô có cùng một thao thức. Cha mời Adelaide cộng tác… và Dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria đã ra đời vào năm 1791 tại Paris.

Từ ngày thành lập cho đến nay, nhà Dòng vẫn trung thành với đặc sủng mình là làm chứng tá cho Chúa Kitô như một người tận hiến ở giữa môi trường sống. Dòng không có sứ vụ riêng biệt nhưng phục vụ theo nhu cầu của thời đại và nơi chốn. Các chị không mặc tu phục hay đeo huy hiệu, nhưng chọn trang phục phù hợp với môi trường phục vụ của mình.

Sự phong phú của sứ vụ kéo theo sự đa dạng trong lối sống cộng đoàn. Các nữ tu, tùy theo sứ vụ được sai đi, có thể sống chung mái nhà với cộng đoàn hoặc ở tại gia đình hay sống riêng. Sự đa dạng về sứ vụ và nơi hiện diện tạo nên nét phong phú của Dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria. Chính sự linh hoạt trong đời sống cộng đoàn và sứ vụ này tạo cơ hội cho nhiều người thuộc mọi tầng lớp, mọi nền văn hóa, sắc tộc… theo đuổi ơn gọi trong Dòng. Tất cả những năng động này giúp các chị trở nên “men trong bột” và lan tỏa hương thơm của Chúa Kitô trong bất kỳ môi trường sống và làm việc nào.

…nhưng không thuộc về thế gian

Nhìn bề ngoài, các Nữ tử Trái tim Mẹ Maria cũng giống như bao phụ nữ khác, nhưng thật ra, đời sống của họ được hướng dẫn bởi lời khấn dòng: Vâng Phục – Khiết Tịnh – Khó Nghèo. Lời khấn này tạo nên căn tính tu sĩ nơi các chị và xây dựng mối tương quan sâu đậm của từng chị với Chúa Kitô và với nhau. Cha Cloriviere, vốn là tu sĩ Dòng Tên, khi soạn Hiến Pháp và Luật Sống cho Dòng, đã không ngần ngại phác thảo đời sống thiêng liêng cho các chị theo linh đạo Inhã. Theo đó, có rất nhiều thực hành đạo đức giúp các chị tăng trưởng đời sống nội tâm như: cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng, xét mình, tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, Linh Thao, lần chuỗi Mân Côi… Thêm vào đó, các chị em sống chung với nhau theo tinh thần và mẫu gương của cộng đoàn tiên khởi. Điều này giúp các chị xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất trong đa dạng và yêu thương.

Linh đạo của trái tim  

Nếu tên gọi thể hiện căn tính sâu xa của một ai đó thì tên Dòng cũng vậy. Dòng mang tên Nữ tử Trái tim Mẹ Maria cho thấy các chị chú trọng vào đời sống nội tâm. Dẫu rằng ẩn khuất nhưng trái tim điều khiển và là nguồn mạch của mọi sinh lực bên trong chúng ta, là nơi kiến tạo một đời sống thiêng liêng vững vàng.

Trái tim còn là biểu tượng của tình yêu nên ơn gọi của các chị chính là đem yêu thương đến với mọi người. Tự sức mình, các chị không làm được. Vì vậy, các chị được mời gọi chiêm ngắm đặc biệt trái tim Mẹ Maria, để qua Mẹ kết nối với trái tim Chúa Giêsu là nguồn mạch tình yêu.

Tên tiếng Anh của Dòng là the Society of the Daughters of the Heart of Mary (DHM), nghĩa là con gái của trái tim Mẹ Maria. Điều này muốn nói lên rằng:

Trong trái tim Mẹ, con rất dấu yêu.

Suốt cuộc đời Mẹ chỉ có Chúa Giêsu trong tim. Con hãy để Chúa Giêsu làm chủ trái tim mình.

Trái tim Mẹ là ngôi trường thinh lặng. Con sẽ học biết thế nào là hiền lành, nhân hậu và khiêm cung.

Trái tim Mẹ là căn phòng ấm êm. Con sẽ tìm thấy chính mình trong tình yêu dịu dàng của Mẹ.

Trái tim Mẹ là tu viện của con, nơi con được chở che, chăm sóc và sai đi.  

Trái tim Mẹ hòa nhịp đập nhân sinh cho con thỏa sức trên cánh đồng sứ vụ.





25/4/19

Hạnh phúc đích thực và ơn gọi đời tôi

Buổi tọa đàm với cha Michel Remery với chuyên đề Tweet với Chúa đã cho tôi một dấu nhấn quá đẹp trong tổng thành tựu tốt đẹp của chương trình Đại hội Giới trẻ TGP. Sài Gòn 2019.
Bắt đầu bằng câu hỏi căn cốt nhất của mọi nỗ lực tìm kiếm của con người: “Hạnh phúc đích thực là gì?” và “Làm sao để đạt được nó?” cha đã hướng mọi người lướt qua kinh nghiệm tìm kiếm của thánh Inhã Loyola, để hội tụ lại nơi ta có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực: THIÊN CHÚA.

Kinh nghiệm của năm tham dự viên vẫn cảm thấy “buồn” khi đời mình vẫn có Chúa giúp mở ra những điều căn bản nhất của một tương quan đích thực của một người với Thiên Chúa của mình: hình ảnh bạn có về Thiên Chúa của bạn, mức độ bạn tương quan với Ngài cách đích thực trong cầu nguyện, luyện tập cầu nguyện với Kinh Thánh, kinh nghiệm khô khan trong cầu nguyện... Hình ảnh người cha tập xe đạp cho con mình thật thú vị để bắt đầu kinh nghiệm cầu nguyện cá vị.

Bạn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực khi tìm ra và can đảm thực hiện ơn gọi đích thực đời mình.

[Bạn tự Yes hoặc No cho từng câu hỏi sau nhé:
  1. Người ta hay nói về số phận, số mệnh. Bạn có tin là mình được sinh ra là để được hạnh phúc không chỉ trên cõi đời này, mà còn được HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI không?
  2. Bạn có đồng ý với quan niệm rằng: Thiên Chúa có kế hoạch cho mỗi người để họ được hạnh phúc trọn vẹn?
  3. Dù Thiên Chúa đã có kế hoạch cho bạn, nhưng bạn HOÀN TOÀN TỰ DO chọn lựa đi theo kế hoạch đó hoặc từ chối kế hoạch Ngài dành cho bạn để đi theo con đường của chính mình?
  4. Dù bạn chọn lựa theo ý Chúa hay theo ý mình, thì rốt cuộc Thiên Chúa cũng vẫn đồng hành với bạn để giúp bạn hoàn thành đời mình cách tốt nhất. Bạn đồng ý hay không?
  5. Kitô giáo tin và dạy rằng: Mỗi người chúng ta có một ơn gọi, tức là một con đường, một phương cách để nên thánh. Ơn gọi này phát xuất từ Thiên Chúa. Bạn đồng ý hay không?
  6. Ơn gọi hôn nhân TẦM THƯỜNG HƠN ơn gọi tu trì. Bạn đồng ý hay không?
  7. Chọn lựa sống độc thân để phục vụ Chúa và Hội Thánh là lạ lùng và trái tự nhiên. Bạn đồng ý hay không?
  8. Những khả năng bạn đang có là một dấu hiệu rõ ràng nhất về những gì Chúa muốn bạn thực hiện trong đời mình? Bạn đồng ý hay không?
  9. Muốn biết ý Chúa, điều quan trọng nhất cần có là mối tương quan của bạn với Thiên Chúa. Bạn đồng ý hay không?
  10. Cầu nguyện, bàn hỏi với linh hướng là những phương cách tốt giúp bạn tìm ý Chúa cho đời mình. Bạn đồng ý hay không?]
Có hai cách để bạn tìm được ơn gọi của mình: (1) tìm kiếm ý Chúa cho đời mình, (2) tìm kiếm ước muốn sâu thẳm nhất của bạn. Suốt buổi tọa đàm, cha lặp đi lặp lại rằng “Đừng sợ” như một lời khích lệ các tham dự viên dấn thân cho hạnh phúc và ơn gọi đích thực đời mình.
Như Đức Giêsu đã hỏi Phêrô đến ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” và ba lần ông trả lời “Có”. Sống ơn gọi đích thực của bạn chính là lời đáp trả: “Con yêu mến Thầy”.
Cám ơn cha Michel đã góp thêm một dấu nhấn cho Đại hội Giới trẻ năm nay với chủ để Tin Vâng của Mẹ Maria.

Vị tử đạo tiên khởi Madame des Bassablons

Madame des Bassablons tên thật là Thérèse Pélagie Anne, sinh ngày 3 tháng 12 năm 1728 tại St. Malo, nước Pháp trong một gia đình đạo đức và giàu có. Cô lớn lên dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc nhưng cũng đầy sáng tạo của người mẹ. Ở tuổi đôi mươi, Thérèse thu hút người khác bởi gương mặt xinh xắn, y phục đoan trang và lòng bác ái dành cho người nghèo.

Năm 19 tuổi, Thérèse chấp thuận lời cầu hôn của chàng quý tộc Claude des Bassablons và trở thành Madame des Bassablons. Những năm đầu của đời sống hôn nhân, Thérèse trải qua nhiều đau khổ bởi tư tưởng vô thần của chồng. Tuy nhiên, cô luôn tôn trọng, kiên nhẫn và sống hết lòng với chồng. Kết quả là những tư tưởng của ông Bassablons dần dần biến đổi. Cuối cùng, ông trở lại với niềm tin thời thơ ấu của mình. Từ đó, hai vợ chồng sống rất hài hòa và hạnh phúc. Riêng Madame des Bassablons thì còn vui mừng hơn nữa vì đứa con đầu lòng sắp chào đời. Nhưng đau đớn thay, chỉ sau vài ngày thấy mặt cha mẹ, em bé đã vội ra đi. Sau mất mát đó, cô Bassablons dành nhiều thời gian để giúp đỡ người nghèo hơn. Lúc này, chồng cô không những tham gia vào công việc bác ái này mà còn cảm thấy thích thú với nó.

Một tối nọ, người gác đêm của thị trấn tay rung chuông, vừa chạy khắp các con đường vừa la lớn: “Hãy cầu nguyện cho linh hồn ông Claude des Bassablons”. Ngày ấy, Madame des Bassablon mới 23 tuổi. Goá chồng lại không có con, Madame des Bassablons về sống với cha của mình cũng đang góa. Hai cha con sống bình yên và hăng hái giúp đỡ người nghèo. Sau 8 năm, người cha bỏ cô mà về cùng Chúa. Quà tặng quý giá nhất mà người cha để lại cho cô chính là người nghèo.

Năm 1776, các bà trong nhóm bác ái thúc giục Madame des Bassablons đứng ra đảm trách công việc bác ái của nhóm. Kể từ đó, cô tổ chức nhiều hoạt động bác ái hơn. Trong thời kỳ Khủng bố, nhiều người tìm cách vượt biên. Các Linh mục bị truy bắt phải lẩn trốn từ nơi này qua nơi khác. Madame des Bassablons dùng ngôi nhà của mình ở Pont-Pinel làm nơi trú ẩn cho các Linh mục này.

Theo thói quen, mỗi mùa hè Madame des Bassablons đến sống tại Pont-pinel, gần nhà thờ Parame để gặp vị linh hướng của cô là cha Pierre J. de Cloriviere, S.J. Ngang qua cha Cloriviere, cô biết đến dòng Nữ tử Trái tim Mẹ Maria. Cô là một trong số những người đầu tiên dâng mình cho Chúa trong Dòng này.

Công việc bác ái của Madame des Bassablons bị chính quyền để ý. Họ thuê những người hàng xóm của cô để theo dõi mọi hoạt động và những ai lui đến nhà cô. Bởi vậy, họ nắm chắc cô đang che giấu các Linh mục "phạm pháp" và âm thầm lên kế hoạch bắt giam cô.

Một buổi sáng tinh sương, nhóm cảnh sát ập tới khám xét nhà cô. Khi ấy, Madame des Bassablons đang bệnh nặng trên giường. Vì cô là một người được dân chúng hết sức kính trọng, nên cảnh sát sợ việc bắt cô giữa ban ngày sẽ gây náo động trong dân. Cho nên, họ ở đó canh giữ cô đến 8 giờ tối mới giải cô đến trại giam.

Cô bị giam trong một căn phòng rất chật chội cùng với 24 người khác. Cô bị giam hơn một năm nhưng không hề có cuộc xét xử nào. Người ta chỉ đến và đọc tên những người bị đem đi hành quyết, trong đó có tên Madame des Bassablons. Nghe tin ấy, các bạn tù của cô người thì ngất xỉu, người thì khóc than, khiến cô phải ra sức an ủi họ. Trước khi bị giải lên Paris chịu hành quyết, cô ao ước được xưng tội nhưng chẳng có Linh mục nào ở đó.

Cùng với 11 tù nhân khác, Bassablons đeo gông, đi bộ 18 ngày trời từ St. Malo lên Paris. Bất chấp số phận bi thảm phía trước và thái độ đối xử bạo tàn của lính áp giải, cô luôn giữ được sự bình thản và là người nâng đỡ tinh thần cho các bạn tù khác.

Tại Paris, chỉ một chút trước khi chịu tử hình, cha Cloriviere đã kín đáo giải tội cho cô từ xa. Bí tích này đã thêm sức cho cô can đảm bước lên pháp trường để chịu phúc tử vì đạo ngày 21 tháng 6 năm 1794.

"Madame des Bassablons đã mở đường tới Thiên đàng
cho các Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria
trước cả khi Hội dòng đâm rễ sâu vào lòng thế giới."

(Lời cha Cloriviere an ủi cô Cicé, bề trên tiên khởi nhánh nữ lúc giờ)


Nữ tu bác sĩ Ruth Plau



Một gương mặt rất tiêu biểu của dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria trong thế kỷ 21 này là bác sĩ Ruth Pfau, người được mệnh danh là “mẹ người phong” hay “Mẹ Têrêsa của Pakistan”. Ngày bà qua đời, nhiều hãng truyền thông trên thế giới đồng loạt đưa tin và chính phủ Pakistan quyết định tổ chức quốc táng cho bà. Với người dân Pakistan, bác sĩ Ruth Pfau không phải là người xa lạ, mặc dù bà là người Đức. Suốt 57 năm sống và làm việc tại Pakistan, bà đã giúp đẩy lùi bệnh phong ở quốc gia này và để lại 157 cơ sở chữa trị trên khắp cả nước.

Sinh ra và lớn lên tại Leipzip, miền Đông nước Đức, trong một gia đình Tin Lành, Ruth là con thứ tư trong một gia đình có sáu anh chị em. Ngôi nhà của cô bị bom phá huỷ trong cuộc chiến Xô – Đức. Vào cuối cuộc chiến, khi Ruth được 17 tuổi, em trai cô qua đời vì thiếu thực phẩm và thuốc men. Điều này để lại một vết thương sâu trong lòng Ruth. Cô tự nói với chính mình: “Chuyện này không bao giờ được phép lặp lại nữa”. Sau cuộc chiến, Đông Đức nằm dưới quyền kiểm soát của Xô Viết nên gia đình cô quyết định chuyển qua Tây Đức. Vào những năm 1950, cô học y khoa tại Mainz, rồi sau đó học chuyên khoa tại Bonn.

Cũng trong thời gian này, cô quen biết những người bạn say mê linh đạo I-Nhã rồi dần dần cải sang đạo Công giáo. Nhờ một tu sĩ Dòng Tên, cô trở thành nữ tu dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria vào năm 1957.

Năm 1960, bề trên sai cô qua phục vụ tại miền nam Ấn Độ. Trên đường đi, cô bị kẹt lại khoảng một năm rưỡi ở Karachi, Pakistan vì không xin được visa vào nước Ấn. Trong khi chờ đợi, cô đi thăm một trung tâm chăm sóc nhỏ của dòng. Giây phút cô nhìn thấy một người trẻ mắc bệnh phong bò trên nền dơ bẩn bằng hai tay hai chân đã hoàn toàn thay đổi đời cô. Cô xin bề trên đổi bài sai và quyết định này chuyển đời cô sang một hướng khác.

Cô bắt đầu học ngôn ngữ và ăn mặc như những phụ nữ Pakistan. Trong một đất nước Hồi giáo như thế này, là một phụ nữ, lại là một phụ nữ Công giáo Tây phương, cô gặp khó khăn gấp ba lần người bình thường. Nhưng cô chọn phục vụ tại đây.

Ở tuổi 31, cô bắt đầu chữa trị cho các bệnh nhân phong và giúp họ hoà nhập cộng đồng. Năm 1963, với sự hỗ trợ từ Đức, cô mở phòng khám đầu tiên tại Karachi. Dần dần, nơi đây trở thành bệnh viện chuyên điều trị bệnh phong và được đặt tên là Marie Adelaide Leprosy Centre (MALC). Để có thêm nhiều chuyên viên, cô bắt đầu huấn luyện đội ngũ y bác sĩ cho trung tâm. Dưới sự hướng dẫn của cô, trung tâm MALC dần được công nhận là Học viện đào tạo cấp quốc gia về bệnh phong vào năm 1971.

Chính phủ Pakistan sớm nhận ra những đóng góp tích cực của bác sĩ Ruth Pfau nên đã mời cô làm cố vấn cho Chương trình Kiểm soát Bệnh phong tại Pakistan. Vào những năm 1980, vẫn có khoảng 20 ngàn ca bệnh phong mỗi năm tại Pakistan, nhưng đến năm 2016, con số chỉ còn lại hơn 500 ca. Với những thành tựu như vậy, Pakistan trở thành một trong những quốc gia Châu Á chế ngự bệnh phong tốt nhất.

Không chỉ chiến đấu chống lại bệnh phong ở Pakistan, bác sĩ Ruth còn bí mật cưỡi lạc đà qua Afghanistan chữa trị cho các bệnh nhân phong. Tại đây, bà cũng mở trung tâm và đào tạo nguồn nhân sự tại chỗ. Trong những chuyến đi xa như thế này, bà luôn mang theo Thánh kinh và trung thành với giờ cầu nguyện hằng ngày của bà.

Khi bệnh phong cơ bản đã được kiểm soát tại Pakistan, trung tâm MALC bắt đầu mở rộng sang điều trị lao phổi và các bệnh về mắt. Tính tới năm 2017, trung tâm đã chữa trị cho khoảng 50 ngàn người.

Bởi những đóng góp to lớn cho người dân, bà nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm giải Albert-Scheweitzer vào năm 2004, giải “Người phụ nữ của năm” của đài phát thanh Pakistan năm 2006, giải “Nữ anh hùng thầm lặng” của đài truyền hình Bambi, Đức năm 2012. Bà cũng viết nhiều sách để chia sẻ kinh nghiệm, tình yêu, những thao thức và niềm vui sứ vụ. 


Một số sách rất sống động do bà viết như Không thể sống mà không yêu (Can't live without love), Trái tim có những lý lẽ riêng (The heart has its reasons), Đời tôi thật điên rồ (My life, pure madness), Tình yêu không chất vấn (Love is no why), Lời cuối là tiếng yêu (The last word is love), Sống là điều gì hơn nữa (Living is something else).

Tháng 4 năm 2017, bà bị té nhưng vẫn tiếp tục đi thăm các bệnh nhân trên xe lăn. Ngày 30 tháng 5 năm 2017, khi đang trên giường bệnh, bà xin tuyên khấn lời khấn trọn đời, biểu lộ một cách công khai rằng đời tu rất quan trọng đối với bà. Ngày 10 tháng 8 năm 2017, lúc 4 giờ sáng, bà nhẹ nhàng ra đi ở tuổi 87. Cũng ngày hôm đó, dòng Nữ Tử Trái Tim Mẹ Maria khai mạc Tổng tu nghị bầu Tổng quyền mới.

Tang lễ bác sĩ Ruth Pfau được cử hành trọng thể tại nhà thờ chính toà Saint Patrick ở Karachi vào ngày 19 tháng 8 năm 2017 và được chôn cất tại nghĩa trang Công giáo Pakistan. Có nhiều vị lãnh đạo cấp cao của Pakistan đã tuyên bố rằng bà sẽ xuất hiện trong sách lịch sử của Pakistan hay một trong các bệnh viện lớn nhất của Pakistan sẽ mang tên bà, nhưng có một điều chắc chắn bà đã làm đó là xây những cây cầu giữa các nền văn hoá, tôn giáo và giới tính. Thực ra, cuộc chiến dài nhất, khó khăn nhất mà bác sĩ Ruth Pfau đối diện không phải là cuộc chiến chống lại bệnh phong, mà là “Cuộc chiến phục hồi nhân phẩm” như bà từng chia sẻ.